FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadt20 nam Environ-ACGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Sản lượng tôm thẻ chân trắng trong hệ thống nuôi không thay nước, siêu thâm canh và Biofloc



Dịch bệnh và các yếu tố bất lợi từ môi trường luôn là hai vấn đề lớn đối với sự phát triển bền vững của ngành nuôi tôm. Ứng dụng các hệ thống nuôi mới như không thay nước, nhà kính, biofloc siêu thâm canh sẽ giúp hạn chế được các vấn đề trên. Tuy nhiên, các hệ thống này khi vận hành với hiệu suất lớn (>6 kg/m3) cần phải cung cấp nguồn khí ổn định để đáp ứng nhu cầu oxy cao của tôm và hệ vi sinh vật.
 
Phòng nghiên cứu ở Texas thực hiện dự án dùng máy bơm gắn Venturi (ống khuếch tán) để bơm không khí hoặc oxy vào giữa đáy ao giúp trộn và sục khí vào nước. Các airlifts (thiết bị nén khí) và máy khuếch tán oxy được sử dụng để tạo dòng chảy trong hệ thống. Hệ thống này hoạt động khá tốt, năng suất 8 - 9 kg tôm/m3. Nhưng vì muốn giảm chi phí sản xuất xuống, nên tiếp tục thực hiện một nghiên cứu khác với injector (hệ thống vòi phun) không gắn venturi, để hòa trộn khí trong bể ương Biofloc. Nhưng theo thông số kĩ thuật của nhà sản xuất thì tỉ lệ cung cấp không khí vào nước là 3:1. Nhưng thực tế, Venturi cung cấp ít hơn (tỉ lệ 1: 1). Do vậy, phải bổ sung thêm oxy khi sinh khối trong bể cao (> 6kg/m3) nếu muốn duy trì ngưỡng oxy hòa tan mong muốn.
 
 
Năm 2010 tiến hành nghiên cứu với 2 hệ thống bể Raceway 100 m3. Năng suất khi thu hoạch là 6,4 kg tôm/m3. Năm 2011 năng suất đạt 8,4 kg tôm/m3. Ở cả 2 trường hợp, các injector cung cấp đầy đủ và trộn đều oxy vào nưóc, nên không cần thiết phải dùng thêm các thiết bị khác. Nhận thấy, FCR cao một cách bất thường (2,46; 1,77) và có bổ sung thêm oxy tươi trong nghiên cứu năm 2011, nhưng ở nghiên cứu sau chắc chắn sẽ tăng năng suất, giảm FCR và hạn chế được việc bổ sung oxy tươi.
 
Mục tiêu của nghiên cứu năm 2012
 
1. Đánh giá dòng tôm mang gene tăng trưởng nhanh khi thả nuôi ở mật độ 500 con/ m3, sử dụng thức ăn công nghiệp và hệ thống nuôi ít thay nước.
2. Đánh giá khả năng duy trì hàm lượng DO ở mức tối đa của injector, khi nuôi siêu thâm canh, không thay nước.
 
Ngoài ra, nghiên cứu cũng tiến hành cho ăn liên tục trong 24 giờ nhằm giảm FCR vì lúc này, hàm lượng oxy hòa tan và nhu cầu bổ sung oxy tươi giảm đáng kể.
 
Nghiên cứu này sử dụng 14 injector không gắn venturi để hòa trộn khí. Cac injector được đặt song song theo hướng của dòng chảy, dọc theo đáy của bể Raceway. Hệ thống được vận hành bằng cách sử dụng một máy bơm 2-HP. Nhưng trong điều kiện bắt buộc (như sinh khối cao, chất thải rắn nhiều, DO thấp) thì phải hoạt động cùng lúc hai máy bơm. Để loại bỏ hạt và hợp chất hữu cơ hòa tan, mỗi bể RW cần lắp thêm 1 injector để vận hành máy tạo bọt và một bình lắng hình nón 2m3.
 
Các hệ thống Raceway ban đầu được bơm đầy 72 m3 bao gồm nước biển (23 m3), nước ngọt đã được khử trùng bằng clo (24 m3) và nước làm giàu biofloc (25 m3). Năm 2011, sử dụng dòng tôm mang gene kháng bệnh Taura và thả nuôi có trọng lượng trung bình (TLTB) là 3,14 gr/con, mật độ 390 con/m3. Ở nghiên cứu này, sử dụng tôm mang dòng gene kết hợp giữa tôm kháng bệnh Taura và tôm có tốc độ tăng trưởng nhanh, TLTB là 3,60 gr/con, mật độ 500 con /m3.
 
Sử dụng thức ăn chứa 35% protein thô (sản xuất từ công ty Zeigler Bros., Mỹ) suốt bảy ngày/ tuần, liên tục trong 24 giờ bằng máy cho ăn. Vào ngày 7, bổ sung thêm vào bể cho đủ 100 m3 gồm 14 m3 nước ngọt và 14 m3 nước biển. Tỉ lệ cho ăn ban đầu được tính dựa trên FCR giả định là 1: 1,4 với tốc độ tăng trưởng 1,5 gr/con/ tuần, tỉ lệ chết 0,5%/ tuần. Sau đó, tỉ lệ cho ăn được điều chỉnh dựa trên kết quả tăng trưởng và tiêu thụ thức ăn (2 lần/ tuần). Hệ thống Raceway không thay nước và nước ngọt được bổ sung hàng tuần (khoảng 0,475 m3/ngày) để duy trì độ mặn và bù lại lượng nước thất thoát trong quá trình vận hành máy tạo bọt và bình lắng.
 
Nhiệt độ, độ mặn, oxy hoà tan và pH được đo hai lần/ ngày bằng máy đa đầu dò YSI 650. Mỗi hệ thống RW được gắn một thiết bị báo động DO. Kiềm được đo 2 lần/tuần và điều chỉnh đến 160 mg /l (CaCO3) bằng sodium bicarbonate. Chất rắn lắng tụ (SS) được đo hàng ngày và chất rắn lơ lửng tổng cộng (TSS) được đo ít nhất 2 lần/ tuần. Độ đục, VSS, cBOD5, TAN, NO2, NO3, và PO4-P được đo hàng tuần.
 
Bảng 1: Tóm tắt 8 thông số chất lượng nước hàng ngày trong thử nghiệm ao nuôi tôm thẻ chân trắng (L.vannamei) 63 ngày trong 2 bể RW 100 m3, mật độ 500 con/m3, có sử dụng injector.


 

Bảng 2: Tóm tắt thông số chất lượng nước trung bình hàng tuần trong thử nghiệm ao nuôi tôm thẻ chân trắng (L.vannamei) 63 ngày trong 2 bể RW 100 m3, mật độ 500 con/m3, có sử dụng injector

 

 Máy tạo bọt được vận hành từ ngày 8, và sử dụng bình lắng vào ngày 23 khi chất rắn lơ lửng đạt 23 ml/l. Tốc độ dòng chảy của các máy tạo bọt là 28 lít/phút, bình lắng là 8,5-20 lít/phút. Cả 2 thiết bị loại bỏ các chất rắn trên được sử dụng liên tục.
 
Tỷ lệ chết được quan sát từ tuần thứ ba của quá trình nuôi. Vào ngày 22, bổ sung thêm oxy để làm giảm stress cho tôm và giảm tỉ lệ chết. Vào ngày 44, ước tính sinh khối khoảng 8,2 kg tôm/m3. Máy bơm 2 HP thứ 2 làm tăng khả năng sục khí. Như vậy, không cần thiết phải bổ sung thêm oxy tươi vào 3 ngày sau đó.
 
Tôm được thu hoạch vào ngày 64 bằng máy thu hoạch cơ học. TLTB khi thu hoạch là 22,72 gr/con với tốc độ tăng trưởng TB là 2,12 gr/tuần. Sản lượng TB là 903 kg/100m3, tỷ lệ sống 79,5%. Sản lượng 2011 cao hơn (9.03 và 8.4 kg/m3), FCR giảm (1.77 xuống 1.48).
 
Bảng 3: Tóm tắt các chỉ số tôm nuôi trong giai đoạn nghiên cứu 63 ngày trong hệ thống RW 100 m3 bằng cách sử dụng injector để hòa trộn và sục khí

 

Injector giúp duy trì hàm lượng DO cao nhất trong hệ thống biofloc với sinh khối (>9 kg/m3). Ở các nghiệm thức, hàm lượng oxy hòa tan luôn được giữ trên 5 mg/l. Giảm việc bổ sung oxy tươi xuống khoảng 15% so với 2011, sinh khối 8.4 và 9.03 kg/ m3. Cho ăn liên tục trong 24 giờ bằng máy hạn chế được hiện tượng oxy giảm thấp và giá trị FCR thấp hơn khi cho ăn bằng tay.
 
Điều quan trọng trong nghiên cứu này là giảm được chu kì nuôi từ 106 ngày (năm 2011) giảm còn 63 ngày (năm 2012) vì tốc độ tăng trưởng hàng tuần >2gr/ tuần. Như vậy, hệ thống nuôi này có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn khi nuôi tôm mang gene tăng trưởng nhanh (tăng số lượng mùa vụ/ năm).
 
Một nghiên cứu khác cho thấy, hệ thống ao nuôi thủy sản tuần hoàn không thay nước hạn chế được mầm bệnh và các yếu tố bất lợi từ môi trường
 
Phòng nghiên cứu ở Texas lại tập trung nghiên cứu sử dụng khẩu phần ăn của tập đoàn Zeigler Bros., Mỹ - ứng dụng đặc biệt vào hệ thống nuôi biofloc siêu thâm canh không thay nước. Hệ thống nuôi với mật độ cao (>300 con/m3) cho sinh khối cao (>3 - 6 kg/m3). Năm 2009, sản lượng đạt 9,29 kg/m3 và tỉ lệ sống 88% khi không thay nước và mật độ là 500 con/m3, cùng với việc sử dụng máy tạo bọt và bình lắng để điều chỉnh hàm lượng vật chất hữu cơ trong hệ thống nuôi.
 
Mục tiêu của nghiên cứu:

1. Nghiên cứu ảnh hưởng của 2 loại thức ăn lên tôm và nước trong mô hình nuôi không thay nước
2. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ sống, FCR trong mô hình nuôi không thay nước
3. Sản xuất tôm đạt kích cỡ thương phẩm ở mật độ cao trong mô hình nuôi không thay nước
4. Đánh giá công dụng của máy kiểm soát hàm lượng DO trong hệ thống nuôi siêu thâm canh
 
Nghiên cứu được thực hiện trong 6 bể 40 m3, kích thước 25.4 m x 2.7 m, lót bạc EPDM và không gây độc cho tôm. Bể được lắp một vách ngăn giữa, bên dưới thiết kế ống phun khí dài, đường kính 5.1 cm. Mỗi bể RW có 6 thanh dài đặt cách đều theo chiều ngang bể. Trên mỗi thanh được gắn thêm 3 ống bơm airlift, đường kính 5.1 cm. Ngoài ra, mỗi bể RW còn được trang bị thêm 6 ống khuếch tán khí dài, đường kính 0.91 cm, máy bơm ly tâm HP và một injector có gắn Venturi để hòa trộn oxy. Bể RW được cấp thêm 18 m3 nước của quá trình ương trước đó (49 ngày) và thêm 22 m3 nước bao gồm nước biển tự nhiên và nước sinh hoạt. Mỗi bể RW còn được gắn thêm 1 máy tạo bọt nhỏ và 1 bình lắng. Tôm dùng trong nghiên cứu là tôm mang 2 dòng gene kháng bệnh Taura và tăng trưởng nhanh. Tôm được vận chuyển 2 lần vào ban đêm, cách nhau 8 ngày.
 
 
Lần vận chuyển tôm đầu tiên vào ngày 12/04/12 với mật độ thấp (1.000 con/m3) vào bể ương RW 40 m3. Lần vận chuyển tôm thứ 2 vào ngày 20/04/12 vào 2 bể 30 m3 với mật độ cao hơn (3.000 com/ m3). Mỗi bể RW dùng cho nuôi tôm thương phẩm được thả tôm con từ 2 nghiên cứu ương bên trên.
 
Ngày 01/06/12, thả tôm từ đợt ương đầu tiên vào 6 bể tôm nuôi thương phẩm. Số lượng tôm tổng cộng là 12.000 con/ bể (3.74gr/con). Tiếp tục, ngày 06/06/12 thả 8.000 con (0.9 gr/con) từ lô tôm ương lần 2. Số lượng tôm được thả trong mỗi bể RW khoảng 2.000, mật độ 500 con/m3. Tôm từ 2 bể ương có trọng lượng trung bình từ 3.74 – 2.66 gr/con.
 
Nghiên cứu so sánh ảnh hưởng của 2 nghiệm thức thức ăn với 3 lần lặp lại
 
Mô hình nuôi bán thâm canh sử dụng thức ăn SI – 35 - chứa 35% đạm thô, 7% lipid và 4% xơ. Mô hình nuôi thâm canh mật độ cao sử dụng thức ăn HI – 35 - chứa 35% đạm thô, 7 % lipid và 2% xơ. Cả 2 loại thức ăn này đều được sản xuất từ tập đoàn Zeigler Bros., Mỹ. 
 
Các bể RW 1,3 và 5 nuôi theo hình thức thâm canh mật độ cao, sử dụng thức ăn HI. Các bể RW 2,4 và 6 nuôi theo hình thức bán thâm canh, sử dụng thức ăn SI. Tôm được cho ăn bằng tay trong 3 ngày đầu tiên. Từ ngày 4 – 11 kết hợp cho ăn bằng tay và máy. Từ ngày 12 - 47, cho ăn bằng máy liên tục 12 giờ. Bắt đầu ngày 48, cho ăn bằng máy liên tục 24 giờ. Tỉ lệ cho ăn hàng ngày được tính dựa trên tăng trưởng giả định 1.5 gr/ tuần và FCR là 1.4, tỉ lệ chết 0.5 %/ tuần. Tỉ lệ này được điều chỉnh dựa trên việc quan sát khả năng tiêu thụ thức ăn và kết quả của việc thu mẫu tôm 2 lần/ tuần, tốc độ tăng trưởng TB là 2.56 gr/tuần.
 
Sử dụng máy tạo bọt và bình lắng từ ngày 7 – 44 sau khi thử nghiệm bắt đầu. Máy tạo bọt và bể lắng hoạt động không liên tục, kiểm soát hàm lượng vật chất lơ lửng tổng cộng trong khoảng 200 – 400 mg/l và hàm lượng chất rắn lắng tụ từ 10 – 12 ml/l. Bể lắng có tốc độ dòng chảy là 8.5 -12 l/ phút. Hệ thống RW không thay nước trong suốt nghiên cứu và nước ngọt vẫn được thêm vào để bù đắp cho lượng nước đã mất do hoạt động của máy tạo bọt và bình lắng.
 
Nhiệt độ nước, độ mặn, oxy hoà tan và pH được đo hai lần/ ngày bằng máy đa đầu dò YSI 650. Kiềm được đo 2 lần/ tuần. Chất rắn lơ lửng tổng cộng được đo 3 lần/ tuần. Độ đục, VSS, Cbod, TAN, NO2, NO3 và PO4 – P được đo hàng tuần. Mỗi hệ thống RW được trang bị máy đo đa chỉ tiêu YSI để theo dõi và cảnh báo bằng đầu dò DO quang học.
 
Hàm lượng ammonia nitrogen tổng cộng được duy trì <0.5 mg/l, hàm lượng NO2 – N được duy trì <1.22 mg/l (bảng 2). Chất rắn lơ lửng tổng cộng, độ đục và VSS trong nghiệm thức SI – 35 được duy trì ở mức ý nghĩa cao hơn HI – 35 (bảng 5, 7 và 9). Kết quả này liên quan đến các thành phần không tiêu hóa trong SI – 35 (xơ khoảng 2.69 % và 1.61 %), tro (11.11% và 9.55%) cao hơn nghiệm thức HI – 35.
Sodium bicarbonate được thêm vào hệ thống RW (khoảng 20% lượng thức ăn) để đạt giá trị 160 mg/l CaCO3. Tuy nhiên, nghiệm thức HI – 35 không làm giảm độ kiềm như SI – 35, dẫn đến sự khác biệt về độ kiềm giữa các nghiệm thức (bảng 8). Bảng 8 cho thấy rằng ở tuần 5, độ kiềm giữa các nghiệm thức là như nhau. Lượng bicarbonate bổ sung trong nghiệm thức SI – 35 khoảng 53.6 kg và 41.6 kg ở nghiệm thức HI – 35. Oxygen sử dụng trong nghiệm thức HI – 35 thì thấp hơn 21% so với nghiệm thức SI – 35 và lượng nước được dùng để sản sinh ra 1 kg tôm của HI- 35 thì thấp hơn SI – 35 (125 lít với 138 lít, bảng 3).

Bảng 1: Gía trị trung bình của thông số chất lượng nước hàng ngày trong suốt giai đoạn nghiên cứu ao nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng trong bể 40 m3

 

1RWs: nghiệm thức sử dụng thức ăn HI – 35 của Zeigler Bros
2RWs: nghiệm thức sử dụng thức ăn SI – 35 của Zeigler Bros
 
Bảng 2: Gía trị trung bình của thông số chất lượng nước hàng tuần trong suốt giai đoạn nghiên cứu ao nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng trong bể 40 m3

 

1RWs: nghiệm thức sử dụng thức ăn HI – 35 của Zeigler Bros.
2RWs: nghiệm thức sử dụng thức ăn SI – 35 của Zeigler Bros.
Các kí tự khác nhau trong cùng 1 hàng thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê
 
Kết quả phân tích chỉ số nuôi tôm dựa trên số liệu thu hoạch được (bảng 3) cho thấy TLTB (22.33 và 19.79 g), năng suất (9.75 và 8.71 kg/ m3), tốc độ tăng trưởng hàng tuần (2.03 và 1.76 g/ tuần); FCR (1.25 và 1.43) của tôm cho ăn thức ăn HI- 35 có giá trị cao hơn. Tỷ lệ sống có sự khác biệt không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (87.27% ở nghiệm thức HI – 35 và 88.18 % ở nghiệm thức SI – 35). Tuy nhiên, tỉ lệ sống của tôm trong bể RW thấp hơn so với các nghiên cứu trước đó.
 
Bảng 3: Tóm tắt các chỉ số tôm nuôi trong giai đoạn nghiên cứu 67 ngày khi nuôi trong hệ thống RW không thay nước

 

Nghiên cứu này cho thấy rằng, khi nuôi không thay nước, tôm vẫn có thể đạt kích thước thương phẩm dù sự khác biệt về giá giữa 2 nghiệm thức HI và SI là có ý nghĩa (1.75USD/ kg và 0.99USD/kg). Như vậy, khi nuôi bằng thức ăn HI – 35 cho giá trị kinh tế cao hơn.


NguồnTzachi M. Samocha, Ph.D.,  Texas A&M AgriLife Reasearch Mariculture - Production of Pacific White Shrimp in Super – Intensive, Biofloc – dominated, zero – exchange raceway systems – Aqua Practical, Highlight issue, special for 2017.

Người dịch: Thạc sĩ Lê Hải Quỳnh & 
Kỹ sư Châu Ngọc Sơn - Công ty Vinhthinh Biostadt
                 
 
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi