FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGChế phẩm thảo dược tổng hợpENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadtGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Tăng trưởng và phản ứng của giống tôm thẻ chân trắng ở độ mặn thấp và chế độ lipid khác nhau


Tăng trưởng và phản ứng của giống tôm thẻ chân trắng ở độ mặn thấp và chế độ lipid khác nhau
Tôm bị ức chế tăng trưởng ở độ mặn thấp và các chế độ lipid khác nhau


Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tôm thẻ chân trắng giống nuôi ở độ mặn 3 ppt đã ức chế sự phát triển và chế độ lipid khác so với tôm nuôi ở độ mặn 30 ppt. Những phát hiện này giúp giải thích các chiến lược sinh lý của tôm thẻ chân trắng để thích nghi với các vùng nước có độ mặn thấp và cung cấp những hiểu biết mới về tầm quan trọng của lipid đối với quá trình điều hòa thẩm thấu của tôm. Ảnh của Darryl Jory.
 
Tôm thẻ chân trắng được coi là loài có khả năng điều hòa thẩm thấu cao (có thể điều chỉnh cân bằng ion bên trong cơ thể) có thể chịu được khoảng độ mặn từ 0.5 – 50 ppt. Động vật thủy sinh cần nhiều năng lượng hơn để điều hòa thẩm thấu ở mức độ mặn thấp và tôm thẻ chân trắng được báo cáo là cần thêm năng lượng đáng kể (20 - 50% tổng năng lượng trao đổi chất) cho các quá trình điều hòa thẩm thấu bao gồm tăng tốc độ trao đổi chất, thay đổi các thành phần màng tế bào, thay đổi enzym vận chuyển ion hoạt động, nồng độ axit béo không bão hòa cao (HUFAs), nồng độ axit amin tự do (FAAs), tính thấm nước của mang và tổng hợp một số axit amin không thiết yếu trong điều kiện căng thẳng ở độ mặn thấp

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tăng mức lipid trong khẩu phần ăn từ 6 - 9% có thể làm giảm điều hòa áp suất thẩm thấu của tôm thẻ chân trắng trong điều kiện stress ở độ mặn thấp. Tuy nhiên, thông tin còn hạn chế về các chức năng sinh lý của chất chuyển hóa lipid và axit béo cụ thể trong việc cải thiện hiệu quả điều hòa áp suất thẩm thấu của tôm trong điều kiện độ mặn thấp.

Lipidomics là một lĩnh vực khoa học dựa trên phép đo quang phổ [kỹ thuật phân tích trong phòng thí nghiệm để tách các thành phần của một mẫu bằng điện tích và khối lượng của chúng] để khám phá cấu trúc, thành phần và thậm chí cả số lượng của lipid trong các hệ thống sinh học như tế bào, cơ quan và cơ thể. chất lỏng. Ở tôm, mang là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc điều hòa hemolymph [một chất lỏng tương tự như máu ở động vật có xương sống và lưu thông bên trong cơ thể của côn trùng và động vật giáp xác] và cơ là kho nguyên liệu hoặc nguồn dinh dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta còn biết rất ít về phản ứng lipid trong mang hoặc cơ của tôm thẻ chân trắng nuôi ở độ mặn thấp.

Bài báo này - được điều chỉnh và tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Huang, M. và cộng sự, 2019. Sự tăng trưởng và phản ứng lipid của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei đối với độ mặn thấp. Front. Physiol . 10: 1087).
Báo cáo về một nghiên cứu nghiên cứu sự khác biệt về chất chuyển hóa lipid giữa tôm nuôi ở độ mặn 3 và 30 ppt bằng phương pháp sắc ký lỏng - khối phổ để phân tích. (Một kỹ thuật hóa học phân tích xác định hầu hết các hợp chất hữu cơ).

Nghiên cứu thiết lập

Tôm thẻ chân trắng khỏe mạnh được thu mua từ trại nuôi tôm ở Đan Châu (Hải Nam, Trung Quốc) và được nuôi trong phòng thí nghiệm trong một tuần ở độ mặn 30 ppt. Sau đó, tôm thích nghi (0,75 ± 0,03 gam) được thả ngẫu nhiên vào các bể riêng biệt với bốn lần lặp lại cho mỗi nhóm độ mặn (3 và 30 ppt), với 20 con mỗi bể. Trong giai đoạn thích nghi và thử nghiệm, tôm được cho ăn ba lần mỗi ngày bằng thức ăn công nghiệp và khẩu phần hàng ngày được điều chỉnh để mức cho ăn nhiều hơn một chút so với đối chứng. Chu kỳ quang phổ là 12h sáng và 12h tối. Độ pH của nước (7,5 - 7,9), nhiệt độ (26 - 28 0C), oxy hòa tan (4,8 - 6,4 mg/lít) và tổng nồng độ Amoni (<0,02 mg/lít) được theo dõi hai lần một tuần và duy trì trong suốt thí nghiệm .

Sau 2 tháng, tất cả tôm được nhịn ăn trong 24 giờ trước khi lấy mẫu. Tôm trong mỗi bể được cân, đếm số lượng và các mẫu gan tụy, mang và mô cơ được thu thập. Gan tụy được cân để xác định chỉ số gan tụy. Mang và cơ của bốn cá thể trong mỗi bể được gộp lại thành một mẫu và đông lạnh trong nitơ lỏng ngay lập tức, sau đó được giữ ở âm 800C để phân tích lipidomics.

Để biết thông tin chi tiết về thiết kế và thiết lập thử nghiệm; chăn nuôi tôm và thu thập mẫu; chiết xuất lipid, xác định và phân tích trong phòng thí nghiệm; và các phân tích thống kê, hãy tham khảo ấn phẩm gốc.

Kết quả và thảo luận

Đây là nghiên cứu đầu tiên kiểm tra ảnh hưởng stress do độ mặn thấp đối với tôm thẻ chân trắng  bằng cách sử dụng phân tích lipidomics. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tôm thẻ chân trắng được nuôi ở hai độ mặn khác nhau, 3 và 30 ppt (đối chứng) trong 2 tháng, và sau đó phân tích lipidomics dựa trên sắc ký lỏng (LC) (MS) được thực hiện để phát hiện hồ sơ lipid sự khác biệt về mang và cơ.

Kết quả của chúng tôi cho thấy tôm thẻ chân trắng nuôi ở độ mặn 30 ppt có tốc độ tăng trưởng tốt hơn so với tôm nuôi ở độ mặn 3 ppt (Hình 1). Là loài euryhaline (có khả năng thích nghi với độ mặn rộng), Tôm thẻ chân trắng đã được các nhà nghiên cứu báo cáo là có độ mặn tối ưu từ 20 - 25 ppt để tăng trưởng. Tôm thẻ chân trắng của chúng tôi trong điều kiện độ mặn thấp có tăng trọng và yếu tố điều kiện (mối quan hệ giữa chiều dài cơ thể và trọng lượng) thấp hơn so với tôm đối chứng ở 30 ppt, nhưng không có sự khác biệt nào về tỷ lệ sống và chỉ số gan (phản ánh tình trạng sinh lý của tôm). Ngoài ra, tôm nuôi ở độ mặn 3 ppt cần nhiều năng lượng hơn ở 30 ppt.


Hình 1: Tăng trọng (%), tỷ lệ sống (%), chỉ số gan (%) và yếu tố thể trạng (%) của tôm thẻ chân trắng ở độ mặn 30 và 3 ‰. Dữ liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± SEM (n = 4). Hai dấu hoa thị (∗∗) biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa lớn (P <0,01) giữa hai độ mặn.
 
Dữ liệu từ nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tôm có tăng trưởng tốt hơn ở độ mặn 30 ppt gần hơn với điểm đẳng trương hemolymph (nơi có sự cân bằng giữa nồng độ nước bên trong và bên ngoài động vật), đồng thời cũng khẳng định thêm rằng nước xung quanh ở 3 ppt chắc chắn gây căng thẳng cho tôm thẻ chân trắng.

Chúng tôi xác định rằng các thành phần lipid trong mô và mang thu được từ tôm thí nghiệm của chúng tôi rất giống với thành phần của cơ, bất kể độ mặn của môi trường và phospholipid là lipid chính. Nhưng số lượng chất chuyển hóa lipid khác biệt trong mang cao hơn trong cơ ở độ mặn 3 ppt so với tôm đối chứng ở độ mặn 40 ppt, các chất chuyển hóa lipid này thuộc một số lớp lipid. Và trong số những lipid này, phosphatidylcholine (PC), phosphatidylinositol (PI), phosphatidic acid (PA), phosphatidylethanolamine (PE) và triglyceride (TG) là những chất béo chính trong cả mang và cơ của tôm, ở cả 2 độ mặn.

Quá trình điều hòa là một quá trình phụ thuộc vào năng lượng và các động vật thủy sinh buộc phải dành nhiều năng lượng bổ sung hơn cho cơ chế vận chuyển và kích thích các ion (hạt, nguyên tử hoặc phân tử) khi bị thử thách với căng thẳng về độ mặn. Nhiều nhà nghiên cứu khác nhau đã báo cáo mức tiêu thụ oxy và các chỉ số hô hấp (tỷ lệ CO2 do cơ thể sản sinh ra so với lượng O2 mà cơ thể tiêu thụ) là những chỉ số tốt để đánh giá

việc sử dụng năng lượng, đối với tôm của chúng tôi, các chỉ số này ở mức 3 ppt cao hơn đáng kể so với tôm ở mức 17 và 32 ppt.
Dữ liệu của chúng tôi cũng cho thấy rằng thành phần và sự phong phú của các axit béo ở cùng một vị trí của lớp lipid, cho thấy rằng sự phân bố của các axit béo trong lipid là không ngẫu nhiên và việc sử dụng các lớp lipid rất đặc hiệu ở tôm. Các axit béo quan trọng như axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA) cho thấy mối tương quan di truyền tích cực, cho thấy rằng giá trị cao của chúng có tiềm năng cải thiện di truyền.

Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các biến thể lipid được xác định có liên quan chặt chẽ đến một số quá trình sinh lý (cấu trúc màng sinh học, chức năng ti thể, cung cấp năng lượng và các quá trình khác) có thể cải thiện khả năng điều hòa thẩm thấu của tôm thẻ chân trắng trong điều kiện độ mặn thấp.

Quan điểm

Kết quả của chúng tôi cho thấy hiệu suất tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng bị ức chế khi tôm được nuôi ở độ mặn 3 ppt. Những thay đổi đáng kể lipid mà chúng tôi xác định có liên quan đến việc sử dụng axit béo, cung cấp năng lượng có thể cải thiện khả năng điều hòa thẩm thấu của tôm. Sự thay đổi đáng chú ý này trong thành phần lipid là một chiến lược sinh lý quan trọng được tôm thẻ chân trắng sử dụng để đối phó với stress ở độ mặn thấp.

Nghiên cứu này giúp giải thích các chiến lược sinh lý của tôm thẻ chân trắng sử dụng để thích nghi với các vùng nước có độ mặn thấp và cung cấp những hiểu biết mới về tầm quan trọng của lipid đối với quá trình điều hòa thẩm thấu ở loài tôm này.


Nguồn : https://www.aquaculturealliance.org

Lượt dịch bởi : Kỹ sư  
Nguyễn Bình Nguyên - Phòng Nuôi Công Nghệ Cao - Công Ty Vinhthinh Biostadt.
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi