FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadt20 nam Environ-ACGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt
Trang chủ Trang chủTin tứcTômVảnh mang - bệnh mới trên tôm xuất hiện ở Trà Vinh

Vảnh mang - bệnh mới trên tôm xuất hiện ở Trà Vinh

Trong lúc hoang mang, nhiều nông dân nuôi tôm đã nghi ngờ rằng bệnh này do thức ăn nuôi tôm gây ra. Thực tế có phải vậy không?

Theo TS Nguyễn Ngọc Phước (Khoa Thủy sản, ĐH Nông lâm Huế), đây là dạng bệnh mới xuất hiện trên tôm ở Việt Nam, nhưng trên thế giới, đã có những tài liệu ghi nhận về bệnh này. Do chưa có điều kiện tới Trà Vinh xem xét thực tế, lấy mẫu kiểm tra, nên TS Phước chưa thể khẳng định bệnh vểnh mang trên tôm sú ở Trà Vinh là do nguyên nhân gì. Nhưng ông cho rằng bệnh trên tôm có rất nhiều nguyên nhân gây ra. Do vậy, không nên vội vàng khẳng định về nguyên nhân gây bệnh.


15-18-44_benh-vnh-mng-tren-tom

Tôm bị vảnh mang ở Trà Vinh


Như đã nói ở trên, do đây là bệnh rất mới trên tôm ở Việt Nam nên chưa có tài liệu, nghiên cứu nào liên quan đến căn bệnh này. Qua sự giúp đỡ của một số nhà khoa học về bệnh thủy sản, chúng tôi đã tìm được một số tài liệu nước ngoài về một căn bệnh trên tôm với những biểu hiện tương tự.

Theo tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, đây là bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio (Vibrio disease), là một hệ thống bệnh nghiêm trọng do vi khuẩn gây ra. Các vi khuẩn gây bệnh này là Vibrio alginolitucus, Vibrio anguillarum và Vibrio parahaemolyticus. Tôm nhiễm khuẩn có triệu chứng lờ đờ, hôn mê và bơi lội không bình thường. Các chân bơi và chân chèo có thể xuất hiện các đốm đỏ do quá trình gia tăng tổng hợp sắc tố, các đốt bụng có thể bị biến dạng nhẹ. Trường hợp tôm nhiễm bệnh nặng, nắp mang tôm sẽ bị vảnh lên và bị ăn mòn. Trong các trường hợp nặng hơn, có thể nhìn thấy các đốm đen trên vỏ đầu và bụng tôm. Bệnh xuất hiện cả ở tôm thẻ và tôm sú.

Ngày 1/5/2017, Bộ môn Bệnh học thủy sản (Khoa Thủy sản, ĐH Nông lâm TP HCM), đã về lấy mẫu tại một số ao nuôi có hiện tượng tôm sú bị vảnh mang ở huyện Cầu Ngang, Trà Vinh. Tại những ao này, tôm sú có các biểu hiện bệnh, gồm: Vỏ hơi mềm, đóng rong nhẹ; vỏ nắp mang bị bong ra và vảnh lên, bị mòn tạo sắc tố màu đen; mang dơ; một số tôm vỏ sần sùi giống rễ tre.

Đối chiếu giữa khảo sát của Bộ môn Bệnh học thủy sản với tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, tôm sú bị vảnh mang ở Trà Vinh có những triệu chứng tương tự với căn bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio ở Ấn Độ.

Trong những mẫu nước ao, bùn đáy ao, gan tôm và ruột tôm mà Bộ môn bệnh học thủy sản đã thu thập, kết quả kiểm tra (vi khuẩn được phân lập trên môi trường Chromagar Vibrio) cho thấy mật độ vi khuẩn rất cao, nhất là với 2 khuẩn Vibrio alginolyticus và khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae.

Ở 1 ao, khuẩn Vibrio alginolyticus có mật độ 60 cfu/ml trong nước ao, 400 cfu/ml trong bùn đáy ao, 250 cfu/ml trong gan (tôm 1), 840 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 0 cfu/ml trong gan (tôm 2), 5.040 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 120 cfu/ml trong gan (tôm 3), 21.120 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 380 cfu/ml trong gan (tôm 4), 8.200 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 0 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 15.160 cfu/ml trong ruột (tôm 5); khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae có mật độ 490 cfu/ml trong nước ao, 1.440 cfu/ml trong bùn đáy ao, 160 cfu/ml trong gan (tôm 1), 1.000 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 0 cfu/ml trong gan (tôm 2), 3.600 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 0 cfu/ml trong gan (tôm 3), 1.520 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 50 cfu/ml trong gan (tôm 4), 0 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 0 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 1.400 cfu/ml trong ruột (tôm 5)

Ở 1 ao khác, khuẩn Vibrio alginolyticus có mật độ 120 cfu/ml trong nước ao, 520 cfu/ml trong bùn đáy ao, 1.300 cfu/ml trong gan (tôm 1), 1.280 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 320 cfu/ml trong gan (tôm 2), 880 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 570 cfu/ml trong gan (tôm 3), 250 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 40 cfu/ml trong gan (tôm 4), 120 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 400 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 1600 cfu/ml trong ruột (tôm 5); khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae có mật độ 1.130 cfu/ml trong nước ao, 2.240 cfu/ml trong bùn đáy ao, 480 cfu/ml trong gan (tôm 1), 5.920 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 190 cfu/ml trong gan (tôm 2), 5.880 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 490 cfu/ml trong gan (tôm 3), 90 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 520 cfu/ml trong gan (tôm 4), 760 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 580 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 9.760 cfu/ml trong ruột (tôm 5).

Như vậy, kết quả kiểm tra vi khuẩn của Bộ môn Bệnh học thủy sản cho thấy vi khuẩn Vibrio alginolyticus và Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae xuất hiện với mật độ cao trong các mẫu nước, bùn, gan và ruột tôm. Mà trong đó, vi khuẩn Vibrio alginolyticus đã được Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ khẳng định là tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio với những triệu chứng tương tự như bệnh vảnh mang vừa xuất hiện ở Trà Vinh.

Trong khi chờ cơ quan chức năng, các viện, trường, nhà khoa học, làm rõ nguyên nhân gây bệnh vảnh mang trên tôm, nông dân cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng, trị bệnh. Cũng theo tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, biện pháp ngăn ngừa đối với bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio là duy trì chất lượng nước tốt và giảm lượng chất hữu cơ thông qua việc tăng cường thay nước cho ao nuôi.

Biện pháp điều trị là tăng cường thay nước bằng nguồn nước mặn và sạch; cho tôm ăn thức ăn có chứa các chất kháng sinh (đã được xác định độ nhạy cảm của mầm bệnh bằng kháng sinh đồ). Ví dụ: cho ăn thức ăn có chứa Oxytetracyline với hàm lượng 1.5g/kg, tỷ lệ cho ăn 2 - 10% trọng lượng tôm trong vòng 10 - 14 ngày, kết hợp với việc quản lý nước ao hợp lý. Lưu ý cần có thời gian cách ly trước thu hoạch (25 - 30 ngày) để bất hoạt và làm vô hiệu tác dụng có hại của kháng sinh.

Nguồn: http://nongnghiep.vn

 

Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi