FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadt20 nam Environ-ACGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Sản xuất tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương trên cát ở Indonesia

Nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) trong ao có lót bạt bắt đầu vào năm 2013 tại Vùng đặc biệt của Yogyakarta, và sau đó được phát triển dọc theo khu vực ven biển phía nam của Central Java. Các loại đất trong khu vực này bao gồm cồn cát, pH acid đến trung tính, độ dẫn thấp và độ thấm nước 5 cm/giờ. Nước được bơm từ giếng nước ngầm có độ mặn từ 10 đến 25 ppt.

Hiện tại, ước tính có khoảng 1.100 ao có diện tích từ 1.000 đến 4.500 m². Ban đầu, các trang trại sản xuất thành công vụ nuôi tôm nhưng sau đó xuất hiện Hội chứng phân trắng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất. Các nông dân đã giả định sai lầm rằng để tăng sản lượng và lợi nhuận, mật độ thả cao hơn là cần thiết, ngay cả với công nghệ, tiềm lực kinh tế và chất lượng nước hạn chế.

Dữ liệu được báo cáo rộng rãi về hệ thống nuôi L. vannamei và mật độ thả rất đa dạng. Cho đến nay, mật độ tối ưu để sản xuất L. vannamei trên đất cát là không có sẵn. Bài viết này (được điều chỉnh và tóm tắt từ ấn phẩm gốc trong Revista Acuacultura - Cámara Nacional de Acuacultura, số 126, tháng 12 năm 2018) báo cáo về một nghiên cứu được thực hiện để xác định hiệu quả việc thả mật độ cao và sản xuất tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương trong một hệ thống thâm canh sử dụng ao xây dựng trên đất cát.

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện ở bờ biển làng Keburuhan, quận Ngombol Purworejo, Central Java. Vị trí này bao gồm đất cát, đất sét và khu vực nuôi trồng thủy sản. Chín ao lót bạt (3 x 4 x 1 m) được xây dựng trên đất cát và cấp bằng nước (mực nước sâu 80 cm) từ giếng 20 mét. Mỗi ao có một dàn quạt 1 HP để lấy oxy và được thả giống L. vannamei PL - 9 từ một trại giống thương mại.

Tôm được cho ăn bằng thức ăn thương mại (30%), bao gồm bột mịn, mảnh vụn và thức ăn viên tùy theo kích cỡ và số lượng, thức ăn được điều chỉnh sau 25 ngày sau khi thả tùy theo mật độ tôm mỗi lần kiểm tra.

Quản lý chất lượng nước và đánh giá tình trạng tôm được thực hiện thường xuyên. Thay nước ao định kỳ được thực hiện để duy trì chất lượng nước, từ 1 đến 5% cho đến tháng thứ hai, và sau đó 5 đến 7% cho đến khi thu hoạch. Để giảm chất hữu cơ, xi phông đáy sau 25 ngày nuôi tôm và sau đó mỗi tuần. Tôm được thu hoạch sau khi đạt kích cỡ khoảng 12 đến 13 gram, hoặc sau 75 ngày nuôi.

Kết quả và thảo luận

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chứng minh khả năng phát triển của L. vannamei trên đất cát, ao lót bạt mật độ tôm tương đối cao. Số liệu về trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống, tăng trưởng hàng ngày, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và khối lượng sản xuất được thể hiện trong Bảng 1. Trọng lượng cuối cùng trung bình dao động trong khoảng 9,58 ± 0,54 đến 12,93 ± 0,7 gram và nuôi ở mật độ 300 con/m² là khác biệt đáng kể so với phương pháp nuôi 100 và 200 con/m².

Kết quả tốc độ tăng trưởng hàng ngày dao động trong khoảng 0,118 ± 0,006 và 0,1526 ± 0,011 gram mỗi ngày, với sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều chỉnh mật độ so với mối quan hệ nghịch đảo giữa mật độ và trọng lượng. Tỷ lệ sống có kết quả khác nhau giữa tất cả các phương pháp điều chỉnh 100 con/m² đã sống sót 96,54%, tiếp theo là điều chỉnh 200 và 300 con/m² tương ứng 83,46 và 64,98%.


Bảng 1 - Trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống, tăng trưởng hàng ngày, FCR và khối lượng sản xuất của L. vannamei trong ao cát. Các chữ cái khác nhau cho thấy sự khác biệt đáng kể (p <0,05)


Khối lượng tôm sản xuất dao động từ 14,99 ± 1,09 đến 22,37 ± 0,57 kg/m³, có sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều chỉnh mật độ. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) thay đổi trong khoảng 0,99 ± 0,07 đến 2,00 ± 0,05 là sự khác nhau đáng chú ý giữa các phương pháp điều chỉnh mật độ. Biểu đồ 1 và 2 cho thấy tốc độ tăng trưởng và trọng lượng trung bình sau 75 ngày nuôi trong nghiên cứu.



Hình 1 - Sự tăng trưởng tuyệt đối (± SE) của L. vannamei được nuôi ở các mật độ thả khác nhau trong ao cát



Hình 2- Trọng lượng trung bình (± SE) của L. vannamei được nuôi cấy ở các mật độ thả khác nhau trong 75 ngày


Về thông số chất lượng nước, nhiệt độ nước trong các ao nghiên cứu dao động từ 29,23 đến 29,60 độ C, pH 7,96 đến 7,99, độ mặn 22,07 đến 25,07 ppt, oxy hòa tan 4,24 đến 4,51 mg/L, nitrite 1,35 đến 1,96 mg/L, amoniac 1,63 đến 2,49 mg/L, tổng chất hữu cơ (TOM) 185,15 đến 248,20 mg/L và độ đục 38,07 đến 39,64 cm.

Kết luận

Nuôi L. vannamei trong ao cát có lớp lót có hiệu quả khi thả với mật độ 100 con/m². Mật độ thả này tạo ra tốc độ tăng trưởng tốt hơn (0,1526 gram mỗi ngày), tỷ lệ sống (96,5%) và FCR (0,99). Mật độ thả 300 con/m² tạo ra khối lượng sản xuất cao nhất, 22,37 kg/m³, nhưng với trọng lượng cuối cùng và tỷ lệ sống so với các mật độ thả thấp hơn. Để nuôi hiệu quả L. vannamei trên cát, ao lót bạt đòi hỏi phải chú ý đến mùa vụ cũng như quản lý chất lượng nước.

Nguồn: https://www.aquaculturealliance.org

Người dịch: KS. Lê Quang Quý – Công ty Vinhthinh Biostadt
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi