FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGChế phẩm thảo dược tổng hợpENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadtGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Phát triển chiến lược cho ăn phòng ngừa giảm thiểu sự nhạy cảm của tôm thẻ với EMS

Nghiên cứu chỉ ra rằng để phòng ngừa EMS cần cách tiếp cận đa chiều bao gồm sử dụng cả vi sinh vật có lợi và chiết xuất nấm men.

Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hoặc bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) là một trong những bệnh lý mới nhất trong ngành công nghiệp nuôi tôm gây thiệt hại kinh tế khổng lồ ở châu Á và châu Mỹ Latinh. Mặc dù các tác nhân gây bệnh đã được xác định, cơ chế của sự lây nhiễm vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. AHPND có khả năng do sự sản xuất một số độc tố của vi khuẩn. Các chủng khác nhau của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus đã được cô lập từ thực địa, đã cho thấy khả năng gây EMS khi vào ruột tôm. Do V.parahaemolyticus có độc tính cao và tốc độ phát triển nhanh, phương pháp tiếp cận bằng cách phòng ngừa có vẻ là cách hiệu quả nhất để kiểm soát dịch bệnh này.

Trong quá khứ, việc sử dụng các loại vi khuẩn có lợi như men tiêu hoá qua chế độ ăn hoặc các tác nhân sinh học đã được chứng minh sự hiệu quả đối với Vibriosis trên tôm. Trong bài viết này, chúng tôi mô tả nghiên cứu được thực hiện bởi Lallemand Animal Nutrition về hiệu quả của các chủng vi khuẩn có lợi và chiết xuất nấm men để ngăn chặn sự lây nhiễm V.parahaemolyticus.

Sự tìm kiếm các ứng viên chế phẩm sinh học tốt nhất

Hàng trăm các chủng vi khuẩn sống có lợi và chiết xuất nấm men từ bộ sưu tập của Lallemand (một trong những Bộ sưu tập vi sinh vật biển tư nhân lớn nhất có tên Lallemand Aquapharm, Oban, Scotland) đã được sàng lọc trong ống nghiệm bằng cách sử dụng quy trình kép có khả năng tác động đến sự tăng trưởng và bảo quản V. parahaemolyticus trong dung dịch. Các ứng viên triển vọng nhất xa hơn sẽ được thử nghiệm trên vật nuôi.

Hai cách tiếp cận khác nhau đã được thực hiện để sàng lọc các ứng cử viên. Trong trường hợp của chế phẩm sinh học (vi khuẩn sống), các ứng cử viên được sàng lọc dựa trên đặc tính kháng khuẩn của chúng chống lại V. parahaemolyticus (thí nghiệm đối kháng). Khoảng 331 chủng vi khuẩn khác nhau được chọn dựa trên đặc tính và nguồn gốc cô lập. Chúng đã được sàng lọc trong ống nghiệm sử dụng nền tảng độc đáo của Lallemand Aquapharm, AquaSearch®.



Hình 1: Sự phát triển của các chủng V.parahaemoliticus khác nhau (đo bằng mật độ quang ở bước sóng 600 nm) có hoặc không có sự chuyển hoá của các ứng viên chế phẩm sinh học được công bố bởi Lallemand Aquapharm bank.

Mười bốn chủng vi sinh phù hợp đã được lựa chọn từ vòng đầu tiên (Hình 1). Chủng vi khuẩn Pediococcus acidilactici MA 18/5M (Bactocell®), đã chứng minh khả năng giảm  nồng độ vibrios trong ruột tôm và  được đăng ký là chế phẩm vi sinh sử dụng để nuôi tôm trong nhiều năm, được sử dụng làm đối chứng (Hình 2). Thử nghiệm nuôi ghép vi sinh vật cổ điển sau đó đã xác nhận hoạt động kháng khuẩn cụ thể của chủng vi sinh này đối với V. parahaemolyticus. Từ những thử nghiệm trong ống nghiệm, chỉ có bốn chủng vi sinh vật được giữ lại như là ứng viên tiềm năng cho thử nghiệm trên động vật.



Hình 2: Sự phát triển của V.parahaemolyticus có hoặc không có sự chuyển hoá của Pediococcus acidilactici

Quá trình sàng lọc liên kết bệnh học

Trong phương pháp sàng lọc riêng biệt (phương pháp nội bộ), chiết xuất men được tạo ra từ các chủng khác nhau của nấm men đã được thử nghiệm và lựa chọn về khả năng kết dính với các tế bào V.parahaemolyticus trong ống nghiệm. Ở đây, một lượng Saccharomyces cerevisiae đã được sử dụng làm đối chứng. Phần hứa hẹn nhất được chọn để làm kiểm tra trên động vật.

Thử nghiệm in vivo trên tôm

Các mẫu tốt nhất đã được kiểm tra trên ấu trùng tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei trong một thử nghiệm ngâm bởi 100 ml dung dịch nuôi cấy V. parahaemolyticus có độc tố, có thể gây AHPND tại  nồng độ 1.1x 109 CFU / mL (phát triển trên môi trường TSB + 2% NaCl (TSB +) ở 28 ° C trong 18 h). Việc kiểm tra đã được thực hiện bởi tiến sĩ Lộc Trần tại Phòng thí nghiệm Minh Phú Aqua Mekong Shrimp Vet Lab ở Việt Nam.

Hai thử nghiệm được thực hiện trên ấu trùng tôm thẻ L. vannamei, trọng lượng tương đương 0,55 ± 0,07 g và 2,07 ± 0,05 g. Tôm được cho ăn trong 21 ngày với chế độ ăn bổ sung phần chiết xuất men bằng thử nghiệm ngâm và với chế độ ăn không bổ sung. Tỷ lệ tử vong đã được theo dõi trong 10 ngày và tỷ lệ sống mỗi chế độ ăn đã được thống kê so sánh với lô đối chứng của mỗi thử nghiệm sử dụng  phương pháp kiểm định tham số và đường cong tỉ lệ sống Kaplan và Meier (Kaplan và Meier, 1958).

Chế phẩm sinh học

Hai trong số các chế phẩm sinh học tiềm năng được lựa chọn và P. acidilactici MA18/5M (Bactocell®) đã được đánh giá ba lần. Bactocell® cho thấy tác dụng bảo vệ chống lại V.parahaemolyticus, tỷ lệ sống của lô nhiễm bệnh đã tăng từ 40% lên gần 70% với Bactocell®.

Một trong những ứng cử viên đã khẳng định tiềm năng để ngăn chặn tỷ lệ chết gây ra bởi V.parahaemolyticus. Tỷ lệ sống gần 70%. Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê giữa Bactocell® và các ứng cử viên mới (Hình 3). Đường cong tỷ lệ sống Kaplan và Meier đã được xây dựng cho mỗi chế độ ăn và các đường cong được so sánh bằng cách sử dụng kiểm tra hồi quy để xác định sự khác biệt giữa các đường cong và xu hướng tỉ lệ sống giữa các phương pháp xử lý. Mức ý nghĩa được đặt ở P = 0,05 (95% chính xác). Kết quả này xác nhận rằng Bactocell® có thể coi là một công cụ có giá trị để chống lại vibriosis, như các báo cáo trước đây (Castex et al, 2009, 2010; Panigrahi et al, 2011). Ứng viên thứ hai chỉ cải tiến một số lượng nhỏ so với lô đối chứng nhiễm bệnh, do vậy củng cố  nhu cầu sử dụng các nghiên cứu in vivo để xác nhận bất kỳ quá trình sàng lọc thử nghiệm in vitro.



Hình 3: Tỉ lệ sống của tôm thẻ được cho ăn 3 chủng vi sinh khác nhau và sự biểu hiện qua thử nghiệm ngâm với chủng độc tính của V.parahaemoluticus

Chiết xuất nấm men

Căn cứ vào các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, một sản phẩm đã được tạo ra từ chiết xuất men triển vọng nhất. Một thử nghiệm đã thực hiện với các điều kiện tương tự như các bài thử nghiệm đầu tiên được báo cáo trên, sử dụng thiết kế phản ứng – liều lượng.



Hình 4: Tỉ lệ sống của tôm thẻ khi được bổ sung chiết xuất nấm men trong thức ăn trong thử nghiệm ngâm so với chủng mang độc tính của V.parahaemolyticus



Hình 5: Tỉ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ khi được bổ sung chiết xuất nấm men trong thức ăn.

Thức ăn được chuẩn bị là nguồn thức ăn nuôi tôm thương mại tại phòng thí nghiệm của tiến sĩ Lộc Trần. Thức ăn sau đó được trộn với chiết xuất nấm men ở ba nhóm liều lượng khác nhau để điều trị (0,4 g / kg, 0,8 g / kg và 1,2 g / kg thức ăn) và được ép đùn lạnh để giúp cho sự ổn định thức ăn tốt nhất.

Lượng nấm men được chiết xuất cho thấy một ý nghĩa tuyến tính đối với tỉ lệ sống của tôm sau thử nghiệm Vibrio khi gia tăng tỷ lệ sống cuối cùng từ 12,1% trong lô kiểm soát, lên gần 60% ở liều thử nghiệm cao hơn (Hình 4 và 5.) (Log Rank (Mantel-Cox), p <0,01).

Phần kết luận

Những nghiên cứu chỉ ra rằng các giải pháp vi sinh cụ thể là những công cụ hiệu quả trong việc phát triển các chiến lược phòng ngừa để giảm thiểu sự nhạy cảm của ấu trùng tôm thẻ với vibriosis, và đặc biệt đối với AHPND. Sự phòng chống EMS giống như dựa trên một chương trình nhiều yếu tố. Chúng tôi đã chứng minh rằng hai giải pháp vi sinh đặc biệt (các vi sinh vật sống có lợi và chiết xuất nấm men) có thể mang lại kết quả tích cực cho chương trình này.

Cuối cùng, tác dụng có lợi của vi sinh Pediococcus acidilactici MA18/5M (Bactocell®) kháng lại vibriosis đã một lần nữa được xác nhận, và một công thức chiết xuất nấm men mới đã thể hiện khả năng bảo vệ L. vannamei khỏi sự lây nhiễm AHPND.

Nguồn: Stephane Ralite, Mathieu Castex and Dorothée Gotz - Developing preventive feeding strategies to mitigate penaeid shrimp sensitivity to EMS, March/April 2016 AQUA Culture Asia Pacific Magazine, P.11 - 12

Dịch bởi: KS ĐỖ NGỌC TUẤN - CÔNG TY VINHTHINHBIOSTADT
 

Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi